Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Khám phá hành trình tìm đường xuất ngược

Về vấn đề này, ông Lê Hồng Thắng, Tổng giám đốc GDT cho biết: "Tôi nghĩ, những năm gần đây, DN Việt Nam có những mặt hàng chất lượng cao, được người tiêu dùng tin tưởng và ủng hộ. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại nhất là về mặt thiết kế mẫu mã vẫn còn yếu, nếu khắc phục được, tôi tin hàng Việt Nam hoàn toàn có cơ hội cạnh tranh với hàng hóa từ các nước ASEAN".
Viễn cảnh của thị trường TPP và ASEAN khiến nhiều doanh nghiệp (DN) xuất khẩu quyết tâm hơn trong nỗ lực trở về thị trường nội địa. Trước đây, thị trường nội địa thường dành cho các DN quy mô sản xuất nhỏ, thị trường không lớn. Nhưng hiện nay, khi thuế xuất nhập khẩu đang trước ngưỡng trở về mức 0%, thị trường trong nước thu hút cả những DN xuất khẩu lớn. Mặc dù vậy, hành trình trở về này còn rất nhiều rào cản và rất nhiều DN mới ở vạch xuất phát.
Một đường trở về
Việc trở về thị trường nội địa hơn 10 năm trước của Công ty CP Chế biến gỗ Đức Thành (GDT) cho thấy cả cơ hội lẫn khó khăn của các DN xuất khẩu khi tìm đường chinh phục khách hàng trong nước.
Theo ông Lê Hồng Thắng, Tổng giám đốc GDT, Công ty đã khai thác thị trường nội địa từ 10 năm trước đây do nhận thấy nhu cầu tiêu dùng đồ gỗ nhà bếp, gia dụng và đồ chơi trẻ em trong nước đang còn đang bỏ ngỏ.
"GDT chuyên làm hàng xuất khẩu nhưng khi nhìn lại thị trường nội địa, chúng tôi nghĩ tại sao không tạo điều kiện cho người tiêu dùng trong nước có cơ hội sử dụng sản phẩm chất lượng cao? Vì vậy, chúng tôi đã lên kế hoạch nội địa hóa", ông Thắng kể.
Song hành cùng kế hoạch, GDT đã bắt đầu khảo sát thị hiếu của người tiêu dùng trong nước, rồi chuẩn bị đội ngũ thiết kế sản phẩm đáp ứng nhiều mẫu mã, chủng loại khác nhau, chuẩn bị nguồn nguyên vật liệu tốt, chuẩn bị nhân sự phát triển thị trường, liên kết với một số nhà phân phối bán lẻ sản phẩm...
Nhìn lại thời gian đầu quay về thị trường nội, GDT đã gặp không ít khó khăn, nhất là phải cạnh tranh với hàng Trung Quốc kém chất lượng, giá rẻ. Sau thời gian nỗ lực, đẩy mạnh phát triển thương hiệu, mang lại giá trị thiết thực cho khách hàng ở thị trường trong nước thì đến nay thương hiệu GDT và thương hiệu Đồ chơi Winwintoys đã được nhiều người tiêu dùng đón nhận.
Chia sẻ thêm, đại diện GDT cho hay, GDT đang trên con đường hướng tới mục tiêu trở thành một trong những nhà cung cấp các mặt hàng nhà bếp, gia dụng và đồ chơi trẻ em bằng gỗ số 1 tại Việt Nam. Điều này được minh chứng qua doanh thu của GDT những năm gần đây, bình quân tăng 15%/năm.
Cũng như GDT, nhiều DN xuất khẩu khi quay lại thị trường nội địa cũng đã định vị được tên tuổi với các nhãn hàng như San Sciaro và Manhattan (Việt Tiến), Renta, Aoyama, Ann Taylor (May Nhà Bè), Gosto (Bitis)... có mặt trong các trung tâm thương mại lớn trên cả nước.
May Nhà Bè còn liên kết về thiết kế và kỹ thuật với nhà thiết kế thời trang chuyên nghiệp người Ý Lucas Hubscher và các nhà thiết kế thời trang có tên tuổi ở Việt Nam như Lâm Hồng Phúc và Đỗ Mạnh Cường xây dựng một số thương hiệu mạnh.
Gian nan chinh phục
Nhìn bề ngoài, những tưởng thị trường nội địa như "miếng bánh dễ nuốt", song thực chất lại hoàn toàn trái ngược. Chẳng hạn, các thương hiệu dệt may của Việt Nam đang bị các thương hiệu nước ngoài lấn lướt. Theo số liệu của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), thị trường nội địa năm 2013 có mức tăng trưởng thấp nhất trong 3 năm trở lại đây.
Mặc dù doanh thu tăng nhưng hiệu quả của hệ thống tiêu thụ nội địa kém hơn so với năm trước. Sở dĩ hàng tồn kho nội địa không cao là do sức tiêu thụ không lớn, doanh nghiệp phải tự cân đối để sản xuất cầm chừng.
Như trường hợp của GDT, dù đã nội địa hóa gần 10 năm, nhưng theo báo cáo tài chính, trong 3 năm liên tiếp (2011- 2013), tỷ lệ doanh thu từ thị trường nội địa vẫn chưa cán mốc 20%, dù rằng tới thời điểm này, đồ dùng gia dụng, đồ dùng nhà bếp và đồ chơi trẻ em với thương hiệu Winwintoys của GDT hầu như đã phủ sóng rộng trên toàn quốc với gần 1.000 điểm bán hàng được phân phối từ hơn 365 đầu mối (cửa hàng trực tiếp gián tiếp, siêu thị, đại siêu thị, nhà sách...).
Khác hẳn với sự "trở về” một cách quy mô, bài bản như GDT, đại diện một DN đã chính thức từ bỏ ngành may mặc sau gần 5 năm chuyên làm hàng xuất khẩu, ông Nguyễn Văn Tuấn, Giám đốc Công ty TNHH An Thiên Phú (Đà Nẵng) khẳng định, đối với ngành may mặc chỉ có làm xuất khẩu mới "có ăn", vì DN hầu như không phải tốn công sức tìm thị trường, chi phí tiếp thị, bán hàng... tất cả ăn theo số lượng đơn hàng.
Ngược lại, DN sẽ phải tốn rất nhiều chi phí nếu khai thác thị trường nội địa, trong khi chưa chắc hàng đã bán được. Và đó cũng là lý do ông Tuấn bỏ hẳn ngành may sau khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn hai năm liên tiếp, thà chấp nhận mất trắng vài chục tỷ đồng chứ không tiếp tục với thế hai chân: củng cố thị trường xuất khẩu - phát triển thị trường nội địa.
Nếu xét ở quy mô, có lẽ Đông Hưng Group cũng được xem là đơn vị chuẩn bị khá bài bản cho cuộc "ra mắt" thị trường nội địa với các loại giày thể thao, giày vải mang thương hiệu Ananas.
Chia sẻ về vấn đề này, ông Hà Duy Hưng, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Đông Hưng Group, cho hay, với thương hiệu Ananas, chúng tôi kỳ vọng sẽ đem đến cho người tiêu dùng trong nước những đôi giày Việt với chất lượng hàng xuất khẩu nhưng được bán với giá rất Việt Nam.
Để hiện thực nguyện vọng này, Đông Hưng đã mất gần 7 năm nghiên cứu thị trường, xây dựng riêng đội ngũ nhân sự, tìm kiếm kênh phân phối và thiết kế hơn 60 mẫu mã từ giày vải, giày thể thao... bán với mức giá trung bình. "Vậy mà chúng tôi vẫn không ít khó khăn, nhất là khi người tiêu dùng vẫn còn sính ngoại.
Thương hiệu Ananas vẫn chưa được đạt được con số vài triệu đôi/năm cung cấp cho thị trường nội địa như kỳ vọng. Dù rằng, Đông Hưng thừa kinh nghiệm làm giày ngoại với hơn 20 nhãn hàng lớn nhỏ trên thế giới suốt 21 năm qua. Có thể thấy rằng, DN muốn phát triển thị trường nội địa là phải chấp nhận tốn thời gian, công sức để thuyết phục khách hàng bằng chất lượng".
Chậm chân có mất phần?
Nếu chinh phục được thị trường nội địa, DN có thế mạnh xuất khẩu sẽ có nhiều lợi thế trước những đối thủ nước ngoài. Nhưng với nhiều DN, chuyến "trở về” dường như "muộn và chậm".
Theo ông Diệp Thành Kiệt, Phó chủ tịch Hiệp hội Da - Giày - Túi xách Việt Nam (Lefaso), nếu Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) bước vào hồi kết, thì cũng là lúc các DN xuất khẩu nên định vị lại đồng thời cả hai thị trường xuất khẩu lẫn nội địa.
Có như vậy, khối nội mới có thể cạnh tranh trực diện với các DN ngoại. Ngoài ra, với các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) giữa Việt Nam và các nước trong khu vực châu Mỹ Latinh, châu Phi đã và đang được triển khai, cơ hội đang mở rộng cho hàng Việt với nhiều lợi thế về giá.
Tuy nhiên, viễn cảnh lạc quan này sẽ sớm vào hồi kết nếu DN Việt không định vị được vị thế của mình trên thị trường cả nội địa lẫn xuất khẩu. Biết là vậy, nhưng đây vẫn là bài toán mà ngay cả những DN lớn vẫn gặp nhiều gian nan khi lựa chọn lối đi này.
Về vấn đề này, ông Lê Hồng Thắng, Tổng giám đốc GDT cho biết: "Tôi nghĩ, những năm gần đây, DN Việt Nam có những mặt hàng chất lượng cao, được người tiêu dùng tin tưởng và ủng hộ. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại nhất là về mặt thiết kế mẫu mã vẫn còn yếu, nếu khắc phục được, tôi tin hàng Việt Nam hoàn toàn có cơ hội cạnh tranh với hàng hóa từ các nước ASEAN".
Khi triển vọng hàng hóa các nước trong khối ASEAN nhập khẩu vào Việt Nam với thuế suất bằng 0 vào năm 2015, hầu hết các DN ngành gỗ đều nhìn nhận thị trường nội địa sẽ là thị trường chính trong nên kế hoạch "quay về sân nhà” đang được chuẩn bị khá kỹ.
Theo số liệu của Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (Hawa), năm 2009 - 2010, tỷ lệ tiêu thụ đồ gỗ nội thất sản xuất tại Việt Nam so với hàng nội thất nhập khẩu là 20/80. Hiện nay, tỷ lệ này là 40/60, đồng nghĩa với mức tăng trưởng đồ gỗ nhập khẩu xuống thấp rõ rệt, từ 36%/năm giai đoạn 2008-2009 giảm còn 5%/năm giai đoạn 2010 - 2011.
Thị trường nhà ở vốn đóng góp 90% nhu cầu của thị trường nội thất nhưng DN chưa nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng để đưa ra xu hướng thiết kế phù hợp với không gian nội thất.
Trong khi đó, suốt 7 năm qua, với nhãn hàng dành cho thị trường nội địa, Đông Hưng không ngại chi phí chỉnh sửa rất nhiều lần để phù hợp với thị hiếu khách hàng Việt.
"Thiết nghĩ, người Việt đang trả một mức giá quá cao cho các thương hiệu giày ngoại, trong khi mình có thể làm được với mức giá mềm hơn rất nhiều. Đây cũng là lợi thế mà DN Việt cần phát huy", ông Hưng nhận định. Theo ông, đối với việc tiếp cận thị trường nội địa, không chỉ cần năng lực sản xuất mà yếu tố nhân lực và quản lý cũng rất cần thiết.
Với vai trò là nhà điều hành DN với gần 20 năm trong ngành xuất khẩu thời trang công sở, trong đó Mỹ là thị trường chính, ông Lê Trung Hoan, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Dệt May Thương mại Tấn Minh, cho biết, đối với hàng xuất khẩu hầu hết đều làm theo dây chuyền, số lượng lớn. Trong khi làm hàng nội địa mọi thứ phải bắt đầu lại từ đầu, từng khâu một, nên không phải DN nào muốn làm cũng được.
"Dù rằng Tấn Minh cũng đã nghĩ đến thị trường nội địa, với phương thức phát triển theo mô hình cắt may tại chỗ, song để tiếp cận thị trường trong nước và phục vụ khách nước ngoài, chúng tôi vẫn cần thời gian chuẩn bị mọi thứ, tất cả đều phải theo lộ trình, bài bản. Có như thế mới mong có chỗ đứng ở thị trường trong nước", ông Hoan giải thích.
Ông Phạm Phú Cường, Tổng giám đốc Công ty CP May Nhà Bè cho biết, May Nhà Bè tăng cường mở rộng thị trường nội địa bằng cách phối hợp với Vinatex - Mart xây dựng siêu thị mini tại công ty để giới thiệu và tiêu thụ sản phẩm.
Tổng công ty May 10 chọn đầu tư nguồn lực vào việc quy hoạch và phát triển đa dạng kênh phân phối, đặc biệt chú trọng việc mở rộng mạng lưới bán hàng qua kênh đại lý, phát triển chuỗi cửa hàng tại các trung tâm thương mại và siêu thị lớn.
Tuy nhiên, đa số DN đều xác định, khó khăn của kinh tế vẫn còn và sẽ ảnh hưởng đến sức mua tại thị trường trong và ngoài nước. Điều này sẽ khiến sự cạnh tranh giữa các DN dệt may gay gắt hơn, cả trên thị trường trong nước và xuất khẩu (giữa DN trong nước với nhau và giữa Việt Nam với các nước trong khu vực).
Ông Lê Hồng Thắng, Tổng Giám đốc Công ty CP chế biến gỗ Đức Thành: Phụ thuộc vào doanh nghiệp
Mỗi thời điểm đều có những thuận lợi và khó khăn riêng, sớm hay muộn là do mỗi DN có những định hướng riêng để nắm bắt cơ hội. Với GDT, chúng tôi đã có khách hàng nội địa từ nhiều năm nay và cũng tận dụng cơ hội thế giới tẩy chay các sản phẩm Trung Quốc kém chất lượng để tìm thêm thị phần.
Từ những gì mà GDT đã va chạm, hay thông tin chúng tôi thu thập được cho thấy cơ hội vẫn đang chia đều cho tất cả các DN trong nước lẫn khối FDI. Song, điều quan trọng là các DN có biết nắm bắt hay đủ lực để giữ lấy cơ hội hay không. Tất cả những vấn đề này lệ thuộc vào cách nhìn nhận và cách làm của từng DN.
Ông Diệp Thành Kiệt, Phó Chủ tịch Hiệp hội Da - Giày - Túi xách Việt Nam (Lefaso): Thời điểm tốt
Hiện nay, thị trường đang hiện diện ba mô hình kinh doanh, gồm chuyên xuất khẩu, chuyên nội địa và vừa xuất khẩu vừa bán hàng nội địa. Mô hình thứ ba lại chia làm hai dạng, một là từ DN nội địa, phát triển cả hàng xuất khẩu và hai là DN xuất khẩu quay về phát triển thêm thị trường nội địa (trường hợp này chỉ rơi vào một số các DN lớn, nhiều nhất là các DN dệt may, da giày).
Trước đây, thị trường nội địa thường dành cho các DN quy mô nhỏ, thị trường không lớn, nhưng hiện nay, trước nhiều hiệp định lớn như TPP, FTA... và khi thuế xuất nhập khẩu đang trước ngưỡng trở về mức 0%, thị trường Việt Nam bắt đầu trở nên sôi động và cạnh tranh hơn.
Đây được xem là thời điểm tốt cho các DN Việt Nam muốn "trở về”. Lợi thế của DN Việt là hiểu thị trường, văn hóa, con người Việt Nam nhưng rào cản là thương hiệu nhỏ. Ngoài ra, không phải người Việt nào cũng thích xài hàng Việt, họ vẫn có tư tưởng sính ngoại. Do đó, dù là thời điểm tốt nhưng quan trọng vẫn còn tùy vào chiến lược của từng DN.
Ông Nguyễn Chiến Thắng, Giám đốc Công ty liên doanh Scansia Pacific, nguyên Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP.HCM (Hawa): Viễn cảnh còn khó khăn
Thị trường nội địa hay xuất khẩu đều có nét hay riêng. Nếu DN biết kết hợp cả hai thì không còn gì bằng. Tuy nhiên, để làm được ở cả hai thị trường, DN phải có đủ lực và điều quan trọng quyết định thắng thua còn nhờ vào năng lực quản lý.
Đối với lĩnh vực gỗ, mỹ nghệ, những năm trở lại đây, khi thị trường xuất khẩu gặp khó khăn, nhiều DN đã nghĩ đến việc trở về phát triển thị trường nội địa. Nhưng không phải ai cũng làm được. Còn trong khu vực Đông Nam Á, hàng hóa của Trung Quốc, Thái Lan đang tạo cuộc cạnh tranh ở thị trường nội địa nhiều năm nay.
Ngoài ra, một số mặt hàng từ các nước khác cũng đang hưởng mức thuế xuất nhập khẩu khá thấp dưới 5%, nên dù năm 2015 mức thuế có giảm đến 0% thì viễn cảnh cơ hội cạnh tranh của các DN trong nước cũng khó nói.
Ngay như Scansia Pacific, ngoài xuất khẩu ra thị trường thế giới, chúng tôi cũng cung cấp hàng hóa cho một số siêu thị nội - ngoại thất tại Việt Nam, trong đó có Nhà Xinh và vẫn coi đây là việc xuất khẩu ngược cần được duy trì và tiếp tục phát triển.

Chia sẻ cùng bạn câu chuyện Thép "thoát hiểm"

Doanh thu tăng lần lượt 73%, 67%, 23,5% và 17%. Thị phần tôn mạ của HSG luôn ở vị trí dẫn đầu. Trong năm 2013 - 2014, khi các dây chuyền thuộc giai đoạn 2 của nhà máy Tôn Hoa Sen Phú Mỹ đều đưa vào vận hành. Ông Vũ Văn Thanh cho biết, doanh thu của HSG dự kiến sẽ tăng thêm 19% lên 14.000 tỷ đồng. Hoa Sen phấn đấu đạt doanh thu 1 tỷ USD giai đoạn 2015-2016.
Sản xuất thép tại Nhà máy Thép Việt - Ảnh: Quý Hòa
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), nhu cầu tiêu thụ sắt thép xây dựng năm 2013 giảm gần 10% so với năm trước, nhập siêu thép khoảng 5 tỷ USD, nhiều nhà máy thép chỉ còn hoạt động ở mức 40 - 50% tổng công suất do cung vượt cầu... Bất chấp những con số "u ám" này, theo ghi nhận của ông Phạm Chí Cường, nguyên Chủ tịch VSA, vẫn có khoảng 30% DN ngành thép "trụ được" và ăn nên làm ra.
Ông Vũ Văn Thanh, Phó tổng giám đốc Tập đoàn Hoa Sen (HSG) xác nhận, trong năm tài chính 2012-2013, HSG đạt 11.760 tỷ đồng doanh thu, 581 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế (LNST), lần lượt tăng 17% về doanh thu và 58% về lợi nhuận so với niên độ trước.
Với Hòa Phát (HPG), doanh thu năm 2013 là 19.200 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt hơn 2.000 tỷ đồng, tức tăng gần gấp đôi năm ngoái. Nam Kim Group (NKG) gây bất ngờ khi công bố doanh thu năm 2013 tăng hơn 59% và lợi nhuận vượt kế hoạch. Một số như Công ty Đầu tư Thương mại SMC (SMC) tuy lợi nhuận không như mong đợi nhưng vẫn duy trì được mức tăng trưởng doanh thu.
"Tấn công" thép nhập khẩu
"Thực ra khó khăn hiện tại của ngành thép là khó trong lĩnh vực thép xây dựng. Còn với những sản phẩm thép mà lâu nay ta phải nhập khẩu sức cầu vẫn nhiều", ông Nguyễn Ngọc Anh, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty CP TMĐT SMC (SMC) cho biết. Theo thống kê từ VSA, trong năm 2013, dù sản lượng tiêu thụ thép xây dựng giảm thì ở mảng thép mạ kim loại, tôn lại tăng 36%, hay ống thép tăng 20%.
Đặc biệt, nhiều mặt hàng thuộc thép dẹt như thép tấm cán nóng, thép lá cán nguội vẫn phải nhập khẩu. Thấy được cơ hội từ thị trường thép dẹt, từ chỗ thuần túy thương mại, năm 2009 SMC chuyển dần sang vừa phân phối vừa sản xuất gia công các loại thép dẹt gồm thép lá, cắt tấm, xả băng thép cán nguội theo yêu cầu khách hàng.
Đến nay, SMC đã có 4 nhà máy đặt tại TP.HCM, Hà Nội, Bà Rịa - Vũng Tàu với tổng sản lượng hơn 200.000 tấn/năm. Thép dẹt tuy chỉ chiếm 1/3 sản lượng tiêu thụ nhưng lại đóng góp chính vào lợi nhuận của SMC. Ông Nguyễn Ngọc Anh nhấn mạnh: "Nếu không có hệ thống nhà máy này, SMC khó lòng tồn tại và phát triển trong 5 năm gần đây".
Trong các năm tới, SMC sẽ tùy theo nhu cầu thị trường để điều chỉnh linh hoạt giữa hai mảng thép xây dựng và thép dẹt. Mục tiêu trước mắt của SMC là gia tăng lượng tiêu thụ thép dẹt lên 40% tổng tiêu thụ thép. Công ty sẽ tạm dừng đầu tư nhà máy để tập trung vào công tác nghiên cứu, tạo ra những sản phẩm chất lượng hơn và đạt giá trị gia tăng cao hơn.
Về phía Công ty CP Thép Pomina (POM), ông Đỗ Duy Thái, Thành viên HĐQT của POM cho biết, POM sẵn sàng đầu tư 300 triệu USD xây Nhà máy Pomina 3 vì chiến lược hội nhập. Nhà máy Pomina 3 hiện là nhà máy luyện thép hiện đại và lớn nhất Đông Nam Á.
Nhà máy này cho công suất 1 triệu tấn thép/năm, 1 triệu tấn phôi/năm sẽ giúp POM tạo uy thế và nâng cao cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Tương tự, từ khi có Nhà máy Tôn Hoa Sen Phú Mỹ, sản lượng tiêu thụ của HSG trong 4 niên độ gần đây (từ 2009 - 2013) đều tăng lần lượt 64%, 45%, 29% và 32%.
Doanh thu tăng lần lượt 73%, 67%, 23,5% và 17%. Thị phần tôn mạ của HSG luôn ở vị trí dẫn đầu. Trong năm 2013 - 2014, khi các dây chuyền thuộc giai đoạn 2 của nhà máy Tôn Hoa Sen Phú Mỹ đều đưa vào vận hành. Ông Vũ Văn Thanh cho biết, doanh thu của HSG dự kiến sẽ tăng thêm 19% lên 14.000 tỷ đồng. Hoa Sen phấn đấu đạt doanh thu 1 tỷ USD giai đoạn 2015-2016.
Nhờ đưa vào vận hành Khu liên hợp Gang thép Hòa Phát giai đoạn 2 (10/2013) mà sản lượng thép của Hòa Phát đã tăng trưởng mạnh, vượt Pomina để dẫn đầu toàn ngành. Thị phần của Hòa Phát cũng liên tục tăng, từ 14,5% (9/2013) lên 14.8% (10/2013) và 15,2% (cuối 2013).
Các chuyên gia dự báo, với năng lực sản xuất 1,15 triệu tấn thép/năm, 1,1 triệu tấn phối/năm cộng thêm hệ thống đại lý được phát triển mạnh, thị phần của Hòa Phát có thể sẽ tăng lên 18-20% trong năm 2014.
Thực tế, với quy trình khép kín, với công nghệ sản xuất lò cao, giá đầu vào thấp, Hòa Phát rất có lợi thế trong cạnh tranh sản phẩm. Theo ước tính, giá của thép Hòa Phát đang thấp hơn 5-10% so với các đối thủ.
Nam Kim Group, Thép Tiến Lên (TLH) cũng đang bước vào năm 2014 với nhiều triển vọng. Năm ngoái, nhà máy Nam Kim 2 đã giúp NKG gia tăng chuỗi giá trị từ thương mại sang sản xuất tôn mạ. Thị phần tôn mạ của NKG đã tăng mạnh từ 6,2% năm 2012 lên 10,1% hiện tại.
Riêng nhà máy thép hình Bắc Nam sẽ giúp TLH cung cấp trực tiếp các sản phẩm thép hình cỡ lớn mà không phải nhập khẩu như trước, từ đó rút ngắn thời gian sản xuất, tăng tỷ trọng doanh thu sản xuất và cải thiện lợi nhuận gộp.
Gia tăng xuất khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu là cách để các DN thép giảm rủi ro từ cạnh tranh thị trường nội địa và duy trì đà tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận. Thực tế trong niên độ 2012-2013, xuất khẩu đã là động lực tăng trưởng chính của HSG khi góp 45% tổng doanh thu.
Ông Vũ Văn Thanh cho biết, mục tiêu xuất khẩu trong niên độ 2013 - 2014 là đóng góp 40 - 50%tổng doanh thu, với sản lượng xuất khẩu khoảng 310.400 tấn, tương đương doanh thu 289 triệu USD.
HSG vẫn sẽ tìm kiếm thị trường mới ngoài 40 thị trường mà HSG đã đặt chân đến nhưng trọng tâm của HSG vẫn là đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường truyền thống Đông Nam Á.
Với POM, ông Đỗ Duy Thái cho biết, sẽ tăng tỷ trọng xuất khẩu từ 15% doanh thu năm 2013 lên khoảng 30% năm 2014. Thị trường nhắm đến của POM vẫn là Đông Nam Á trong đó sẽ chú ý đến thị trường Philippines, Malaysia.
Ở các thị trường khó tính hơn như Mỹ, châu Âu... ông Thái thừa nhận, do yêu cầu khắt khe về chất lượng, thuế nhập khẩu, các rào cản kiện chống bán phá giá, chi phí vận chuyển tốn kém đã khiến sản phẩm thép của Việt Nam chưa thể tiến xa hơn.
Nếu DN thép được hưởng lãi suất vay dài hạn dưới 5%/năm, khả năng cạnh tranh và tiến công xuất khẩu sang các nước phát triển của DN thép sẽ cao hơn. Ngoài ra, một khi Việt Nam gia nhập vào Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP), cơ hội xuất khẩu thép sang thị trường sang Mỹ, Canada, Chile, Mexico sẽ cao hơn do hưởng thuế suất bằng 0.
Dù xuất khẩu hay trên sân nhà, các DN lớn đã và sẽ chiếm lĩnh thị trường thép. Ông Phạm Chí Cường cho rằng, các DN nhỏ khó đủ lực để vượt lên và phát triển. Ở góc nhìn khác, ông Đỗ Duy Thái cho rằng, chừng nào thị trường còn khách hàng chọn sản phẩm mà không quan tâm đến thương hiệu, chất lượng thì khả năng "sống" của các DN nhỏ vẫn còn. Nhưng hướng đi của các DN này sẽ khó bền vững.

Nỗ lực vào chợ ASEAN của ngành thực phẩm Việt Nam

Không chỉ thâm nhập thị trường các nước ASEAN, nhiều loại thực phẩm Việt cũng lần lượt đến thị trường các nước "bên ngoài" ASEAN. Ngoài hai ngành hàng dệt may và da giày đang là thế mạnh của Việt Nam, tại Nhật Bản, thực phẩm cũng là lợi thế cạnh tranh của DN Việt. Ở lĩnh vực thủy hải sản chế biến, đặc biệt là món Shushi, Sài Gòn Food là thương hiệu được nhắc đến nhiều nhất.
Mở rộng thị trường
Trong chiến lược phát triển đến năm 2020, Vissan đặt mục tiêu trở thành nhà sản xuất, chế biến, phân phối thực phẩm lớn nhất cả nước với chuỗi sản phẩm đa dạng và xuất khẩu sang các nước trong khu vực. Ông Văn Đức Mười, Tổng giám đốc Công ty Vissan, cho biết, Công ty đang từng bước chinh phục thị trường Campuchia và tiếp cận thị trường mới Myanmar.
Theo nghiên cứu của Vissan, người tiêu dùng Campuchia đang chuyển hướng sang dùng sản phẩm Việt Nam thay cho hàng Thái. Trước đây, các mặt hàng thực phẩm chế biến, bánh kẹo tràn ngập nước này là hàng Thái Lan nhưng nay, tỷ lệ hàng Thái và hàng Việt tại nước này tương đương nhau.
Riêng về hàng của Vissan, người tiêu dùng đất nước chùa tháp biết rất rõ về thương hiệu cũng như sản phẩm của Công ty. Chẳng hạn, mặt hàng xúc xích HOLA đạt 90% độ nhận diện thương hiệu và hài lòng của người tiêu dùng nước này. Không chỉ thế, có đến 80% người tiêu dùng trả lời sẽ mua về dùng thử những sản phẩm khác của Công ty.
Trước nhu cầu của người tiêu dùng, tháng 8/2012, Vissan đã thành lập Văn phòng đại diện tại Phnôm Pênh và ký kết hợp tác với nhà phân phối Ung Gech (Campuchia).
Khi thị trường Campuchia đang tiến triển, Vissan tiếp tục xúc tiến sang Myanmar. Ông Mười cho rằng, tuy là thị trường mới mở cửa, còn nhiều rào cản về cách thức kinh doanh nhưng người tiêu dùng nước này rất ủng hộ hàng của Việt Nam.
Trong khi, nhà đầu tư nước ngoài chưa được phép kinh doanh tại Myanmar nên năm 2013, Vissan đã liên kết với CT Group làm nhà phân phối độc quyền các sản phẩm của Công ty tại nước này. Thời gian đầu, Vissan đưa qua những sản phẩm đồ hộp vốn là thế mạnh của Công ty, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Myanmar.
Trước khi quyết định đưa mặt hàng nào, Công ty đã đào tạo, tuyển chọn lực lượng lao động có tay nghề cao, kinh nghiệm và kiến thức để qua Myanmar tìm hiểu thị trường, đánh giá xu hướng, tìm năng phát triển của thị trường.
Năm qua, Công ty Tân Quang Minh (Bidrico) đã xuất 5 container nước giải khát sang Myanmar. Ông Nguyễn Đặng Hiến, Tổng giám đốc Công ty Tân Quang Minh cho biết, đây là kết quả của 3 lần tham gia hội chợ giới thiệu sản phẩm tại Myanmar.
Theo nghiên cứu của CT Group, đơn vị có hệ thống phân phối khá mạnh (có ở tất cả các kênh: siêu thị, chợ, cửa hàng tạp hóa tại Myanmar), cho thấy, hiện có 25 mặt hàng Việt Nam đang bán khá chạy tại đây.
Trong đó, mì gói, nui, thực phẩm chế biến, bánh kẹo, trà, cà phê... của Việt Nam rất được ưa thích. Để đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng Việt tại đây, CT Group đang xây dựng một trung tâm thương mại Yangon.
Tranh thủ ASEAN+3
Bên cạnh Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Việt Nam còn ký kết nhiều hiệp định với các nước khu vực châu Á. Trong đó, Diễn đàn ASEAN+3 (gồm 10 thành viên ASEAN và Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản) đã và đang mang lại nhiều lợi thế cho các DN trong nước.
Không chỉ thâm nhập thị trường các nước ASEAN, nhiều loại thực phẩm Việt cũng lần lượt đến thị trường các nước "bên ngoài" ASEAN. Ngoài hai ngành hàng dệt may và da giày đang là thế mạnh của Việt Nam, tại Nhật Bản, thực phẩm cũng là lợi thế cạnh tranh của DN Việt. Ở lĩnh vực thủy hải sản chế biến, đặc biệt là món Shushi, Sài Gòn Food là thương hiệu được nhắc đến nhiều nhất.
Mỗi năm, Sài Gòn Food xuất sang Nhật 5.000 tấn hàng sơ chế từ cá sapa, tôm, cá hồi, cá đỏ... Nhu cầu về mặt hàng này đang lên mạnh và hiện tại 5 dây chuyền sản xuất của Công ty đang chạy hết công suất nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu.
Số liệu của Viện Chiến lược chính sách công nghiệp, năm 2012, ngành kỹ nghệ thực phẩm Việt Nam xuất khẩu đạt 100 triệu USD. Mục tiêu đến năm 2020, tăng trưởng xuất khẩu của ngành đạt trên 14%, trong đó, bánh kẹo đạt 18%, bột ngọt đạt trên 16%... và dự kiến, đến năm 2030, toàn ngành sẽ xuất khẩu được khoảng 1 tỷ USD.
Trước đây, tại Nhật, ngành hàng này chiếm phần lớn là hàng đến từ Trung Quốc và Thái Lan nhưng nay, lợi thế cạnh tranh về giá rẻ của Trung Quốc không còn. Trong khi đó, tình hình chính trị Thái Lan bất ổn khiến nhà nhập khẩu chuyển hướng sang Việt Nam.
Hiện nay, không chỉ có Sài Gòn Food mà tại TP.HCM và Vũng Tàu có 10 công ty lớn chuyên về mặt hàng này.
Cùng với thị trường Nhật, Hàn Quốc là nước có nhu cầu tiêu thụ mạnh thực phẩm chế biến của Việt Nam. Theo thống kê của Bộ Công Thương, 10 tháng đầu năm 2013, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 5,49 tỷ USD, trong đó, hàng nông sản thực phẩm chiếm hơn 10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Các mặt hàng của Việt Nam xuất sang Hàn Quốc chủ yếu là thủy sản, rau quả chế biến, bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc...
Cuối tháng 12/2013, trong chương trình giao thương "Tiếp cận thị trường thực phẩm Hàn Quốc", Tập đoàn CJ Cheiljedang (một tập đoàn lớn trong lĩnh vực thực phẩm, truyền thông giải trí và dược phẩm của Hàn Quốc), cho biết, đang đẩy mạnh thu mua mì gói, thực phẩm đóng gói, thủy sản chế biến, dầu ăn, tinh bột... để xuất khẩu vào Hàn Quốc.
Chỉ riêng trong lĩnh vực thực phẩm, tập đoàn này đã đạt hơn 10 tỷ USD. Tổng thư ký Trung tâm ASEAN - Hàn Quốc (AKC) cũng từng cho rằng, ngành công nghiệp chế biến thực phẩm Việt Nam dự báo là sẽ có sự tăng trưởng vượt bậc do nguồn tài nguyên phong phú, sự phát triển của các kênh phân phối hiện đại, chất lượng cuộc sống được cải thiện nên người dân đang có xu hướng đi ăn tại các nhà hàng.

Chia sẻ cùng bạn câu chuyện thị trường VN - "sân chơi" của các “cá mập” bán lẻ

Chiến thuật mà Wal-Mart áp dụng muôn năm cũ nhưng hiệu quả lúc nào cũng mới. Bởi chính sách ấy không bao giờ là cũ đối với khách hàng, đó là giảm giá, giảm giá và giảm giá hơn nữa. Wal-Mart nổi tiếng là bán hàng giá hạ, nhắm vào người tiêu thụ thuộc giới ít tiền. Bằng thực tế bán hàng, tập đoàn này khiến người ta dần hiểu rằng, không việc gì phải đi mua giấy lau tay hoặc bột giặt ở một tiệm sang trọng, trong khi tới Wal-Mart giá rẻ hơn mà hàng hóa vẫn như nhau. Với cách làm này hiện nay giới trung lưu cũng "xuống" mua ở Wal-Mart để tiết kiệm.
Theo cam kết gia nhập WTO, bắt đầu từ tháng 1/2015, thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ được mở cửa hoàn toàn. Giờ G đang đến gần, hàng loạt đại gia bán lẻ ngoại đã đổ bộ vào Việt Nam và lên những kế hoạch "khủng" để thâu tóm thị trường.
"Cá mập" săn mồi
Trong số này, có một "cá mập" đến từ Nhật Bản là Aeon. Trong lĩnh vực bán lẻ thì Aeon không chỉ mạnh về tiềm lực tài chính, thương hiệu, mà còn có mối quan hệ với các đối tác lớn. Khi họ đã vào Việt Nam sẽ là đối thủ đáng gờm của nhiều nhà bán lẻ trong và ngoài nước.
Có mặt ở thị trường Việt Nam từ năm 2011, nhưng mãi đến tháng 1/2014, Aeon mới có trung tâm mua sắm đầu tiên tại TP.HCM với số vốn đầu tư 100 triệu USD. Aeon đang tìm mọi cách biến Việt Nam thành "miếng bánh" sinh lời dựa trên phương thức thu hút khách hàng Việt bằng dịch vụ của người Nhật. 1/3 số lượng hàng hóa được cung cấp sẽ có xuất xứ từ Nhật Bản, 1/3 là hàng Việt Nam và phần còn lại có nguồn gốc khác. Người tiêu dùng Việt Nam vốn rất ưa chuộng hàng Nhật và đây là thế mạnh của Aeon, khiến nhiều đối thủ khác phải lo ngại.
Aeon cho biết, sẽ tiếp tục mở thêm trung tâm mua sắm ở Bình Dương vào tháng 10/2014 và năm 2015 sẽ mở ở Hà Nội. Dự kiến đến năm 2020, tập đoàn sẽ có khoảng 20 trung tâm mua sắm tại Việt Nam.
Một con "cá mập" khác của Hàn Quốc là Lotte vào Việt Nam từ 2007, thời gian qua đã chuẩn bị kỹ lưỡng để 2014 bung ra mạnh mẽ. Năm 2008, Lotte mới khai trương trung tâm thương mại đầu tiên tại quận 7 (TP.HCM) thì đến cuối 2013, con số này đã tăng lên 6. Doanh số năm 2013 của Lotte tại thị trường Việt Nam là 2.540 tỷ đồng.
Doanh số năm 2013 của Lotte tại thị trường Việt Nam là 2.540 tỷ đồng
So với các đại gia bán lẻ khác như Big C, Metro Cash & Carry, quy mô và mức độ chuyên nghiệp của Lotte chưa bằng, tuy nhiên, năm 2011, giới kinh doanh bán lẻ thế giới chứng kiến hai "gã khổng lồ" Wal-Mart (Mỹ) và Carrefour (Pháp) phải rút khỏi thị trường Hàn Quốc vì không cạnh tranh nổi với Lotte vốn có khả năng xoay sở nhanh và hiểu rõ thị hiếu tiêu dùng của người Hàn Quốc. Điều này càng giúp Lotte Mart thêm tự tin để thâm nhập thị trường Việt Nam.
Theo kế hoạch, riêng năm 2014, Lotte sẽ khai trương 6 trung tâm thương mại mới tại Hà Nội, TP.HCM, Vũng Tàu, Cần Thơ... với vốn đầu tư từ 30-40 triệu USD mỗi cơ sở. Mục tiêu của Lotte tại thị trường Việt Nam là đến 2020 mở 60 trung tâm thương mại.
Tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới, Wal-Mart (Mỹ) mới đây cũng khẳng định sẽ đầu tư mở hệ thống siêu thị tại Việt Nam. Wall-Mart không chỉ đón đầu thị trường bán lẻ vào năm 2015 mà chuẩn bị để khai thác lợi thế của nhà nhập khẩu khi Việt Nam tham gia Hiệp định thương mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP). Với hệ thống siêu thị toàn cầu, mỗi năm Wall-Mart tiêu thụ khoảng 40 tỷ USD hàng từ Trung Quốc. Nếu vào Việt Nam, sẽ là đối thủ lớn của các nhà bán lẻ khác.
Wall-Mart không chỉ đón đầu thị trường bán lẻ vào năm 2015 mà chuẩn bị để khai thác lợi thế của nhà nhập khẩu khi Việt Nam tham gia TPP
Chiến thuật mà Wal-Mart áp dụng muôn năm cũ nhưng hiệu quả lúc nào cũng mới. Bởi chính sách ấy không bao giờ là cũ đối với khách hàng, đó là giảm giá, giảm giá và giảm giá hơn nữa. Wal-Mart nổi tiếng là bán hàng giá hạ, nhắm vào người tiêu thụ thuộc giới ít tiền. Bằng thực tế bán hàng, tập đoàn này khiến người ta dần hiểu rằng, không việc gì phải đi mua giấy lau tay hoặc bột giặt ở một tiệm sang trọng, trong khi tới Wal-Mart giá rẻ hơn mà hàng hóa vẫn như nhau. Với cách làm này hiện nay giới trung lưu cũng "xuống" mua ở Wal-Mart để tiết kiệm.
Tập đoàn bán lẻ lớn nhất của Thái Lan, Central Group cũng chuẩn bị khai trương chuỗi siêu thị Robinsons Department Store ở Hà Nội trong tháng 3/2014. Chi nhánh quốc tế đầu tiên của tập đoàn tại Hà Nội được đặt tại khu mua sắm giải trí nổi tiếng Royal City với diện tích 10.000m2. Dự kiến Central Group sẽ mở chuỗi siêu thị thứ hai tại TP.HCM vào cuối năm 2014. Hai chuỗi siêu thị này dự kiến sẽ cần khoảng 1.000 nhân viên.
Đấy là chưa kể tập đoàn bán lẻ Fairprice của Singapore cũng đã nắm tới 35% vốn tại một đại siêu thị TP.HCM và tập đoàn bán lẻ Auchan (Pháp) cũng tuyên bố đầu tư 500 triệu USD vào Việt Nam trong 10 năm.
Cuộc chiến khốc liệt
Ngoài ra, tại thị trường Việt Nam còn phải kể đến 2 "cá mập" cỡ bự khác là Big C và Metro Cash&Carry. Big C mặc dù đã có 24 siêu thị trên cả nước, nhưng vẫn không ngừng mở rộng chuỗi.
Không tiết lộ cụ thể số siêu thị mở mới hàng năm, song đại diện Big C Việt Nam nói rằng sẽ không hạn chế số lượng nếu có mặt bằng tốt. Metro Cash&Carry cũng tương tự, hiện có khoảng 20 siêu thị, nhưng tốc độ thâm nhập và mở rộng ngày một gia tăng với các địa điểm đẹp cùng giá cả rẻ chất lượng phục vụ tốt.
Metro Cash&Carry hiện có khoảng 20 siêu thị tại Việt Nam
Theo các doanh nghiệp, dù bị rơi khỏi Top 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, nhưng Việt Nam vẫn được coi là thị trường tiềm năng để các nhà đầu tư khai thác nhờ quy mô và số lượng người tiêu dùng. Không những thế, kênh bán lẻ hiện đại Việt Nam mới chỉ chiếm 25% thị phần, vẫn còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực như Philippines là 33%, Thái Lan 34%; Trung Quốc 51%, Malaysia 60%, Singapore 90%... Vì vậy cơ hội khai thác thị trường còn rất lớn.
Theo dự báo đến năm 2020, kênh bán lẻ hiện đại tại Việt Nam sẽ nâng tỷ lệ lên 45%. Còn theo quy hoạch của Bộ Công Thương, tới thời điểm đó, cả nước sẽ có khoảng 1.200-1.300 siêu thị, tăng gần 650 điểm so với năm 2011. Số trung tâm thương mại và trung tâm mua sắm cũng tăng lần lượt lên 180 và 157 điểm. Cơ hội vẫn giành cho tất cả các doanh nghiệp bán lẻ, nhưng "cuộc chiến" sẽ vô cùng khốc liệt.

Cái nhìn về thị trường xe hơi Việt Nam: Xe sang sống khỏe

Việc mở showroom Audi ở Hà Nội vào tháng 1 năm 2013 đã đóng một vai trò rất quan trọng trong những số liệu tăng trưởng về doanh số ấn tượng của Audi. Ông Laurent Genet tiết lộ: "Việt Nam là một trong 40 nước nơi Audi đã đạt được kỷ lục doanh số mới trong năm 2013. Doanh số Audi toàn cầu tăng 8,3% nhờ vào nhu cầu tăng cao đối với chiếc Audi A3 và các mẫu xe dòng Q. Một kỷ lục mới đối với Audi AG: năm 2013, hãng xe bán được hơn 1,57 triệu chiếc trên toàn thế giới, tăng 8,3% so với năm 2012".
Xe nhập khẩu chính hãng từ Đức với nhiều công nghệ mới nhất được khách hàng Việt Nam ưa chuộng
Trong năm 2013, ở Việt Nam, mặc dù thị trường xe hơi nói chung giảm hơn 50% nhưng riêng thị trường xe sang vẫn tăng rất cao. Chính vì vậy mà các hãng xe sang đều công bố những con số như mơ về tăng trưởng và lợi nhuận.
Tăng trưởng tốt hơn sau mỗi năm
Đối với Audi Việt Nam, năm 2013 là năm tốt nhất từ trước đến nay với gần 600 xe được giao, vượt rất nhiều so với con số 460 xe của kế hoạch ban đầu. Ông Laurent Genet, Tổng giám đốc Audi Việt Nam, cho biết: "Năm 2013 là năm thứ 5 liên tiếp Audi có tốc độ phát triển dương ở Việt Nam".
Sau năm 2013 đầy thành công với tăng trưởng 65%, Mercedes-Benz Việt Nam bắt đầu năm 2014 với kết quả kinh doanh tháng 1 tốt nhất trong 19 năm hoạt động tại thị trường Việt Nam với hơn 200 xe được bán ra, chiếm 58% thị phần của phân khúc xe sang.
Nhà phân phối xe BMW chính hãng nhập khẩu từ Đức, Euro Auto, cũng thông báo có 7 năm liên tục tăng trưởng tốt. Ông Horst Herdtle, Tổng giám đốc Euro Auto, chia sẻ: "Những năm qua, chúng tôi bán được hơn 10.000 xe. Khách hàng tin tưởng vì các dòng xe BMW được làm ở 4 nhà máy tại Munich, Dingolfing, Leipzig và Regenburg".
"Ngoài việc nhập khẩu chính hãng từ Đức. BMW còn được khách hàng Việt Nam biết đến là hãng xe luôn dẫn dầu trong việc áp dụng công nghệ mới trên các dòng xe của mình. Đại diện BMW Việt Nam chia sẻ: "Khách hàng yêu thích BMW bởi vì những công nghệ mới nhất đều được chúng tôi đưa vào sản phẩm của mình. Tôi xin ví dụ về BMW series 3 mới nhất, trên xe có công nghệ hiển thị thông tin trên kính chắn gió, viền cửa sổ ốp Aluminium bóng thường chỉ có trên dòng xe siêu sang, chiếc xe còn đươc sử dụng khung gầm trọng lượng nhẹ nhằm đảm bảo sự ổn định của xe ở tốc độ cao. Với những công nghệ này, BMW thiết lập chuẩn mực mới trong phân khúc sedan hạng sang cho khách hàng Việt Nam".
Có lẽ bị ấn tượng vì kết quả kinh doanh của Euro Auto, Chi nhánh Sime Singapore, Ltd. của Sime Darby Motors (Malaysia) đã hoàn tất việc thâu tóm 89,15% cổ phần của Europe Automobiles Corp. Holdings Pte., Ltd. (EACH), với giá tương đương 29,5 triệu USD. Cùng với đó, Sime Singapore, Ltd. tiếp quản hơn 16% cổ phần của Europe Automobiles Corp. (EAC) với số tiền hơn 6,3 triệu USD. EACH đang nắm 82,98% cổ phần trong EAC, tập đoàn nắm quyền phân phối xe BMW và MINI tại Việt Nam.
Phát biểu trên báo The Star của Malaysia, ông Datuk Lawrence Lee, Giám đốc Điều hành Sime Darby Motors, cho biết: "Chúng tôi đã tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường mới và Việt Nam chứng tỏ được sức hấp dẫn đối với chúng tôi. Thị trường xe sang đang phát triển và thỏa thuận này sẽ mang lại cho chúng tôi một chỗ đứng vững chắc trong thị trường xe hơi Việt Nam".
Mở rộng thị trường
Việc mở showroom Audi ở Hà Nội vào tháng 1 năm 2013 đã đóng một vai trò rất quan trọng trong những số liệu tăng trưởng về doanh số ấn tượng của Audi. Ông Laurent Genet tiết lộ: "Việt Nam là một trong 40 nước nơi Audi đã đạt được kỷ lục doanh số mới trong năm 2013. Doanh số Audi toàn cầu tăng 8,3% nhờ vào nhu cầu tăng cao đối với chiếc Audi A3 và các mẫu xe dòng Q. Một kỷ lục mới đối với Audi AG: năm 2013, hãng xe bán được hơn 1,57 triệu chiếc trên toàn thế giới, tăng 8,3% so với năm 2012".
Cũng theo ông Laurent Genet, doanh số của Audi Việt Nam tiếp tục đóng góp quan trọng vào năm 2014 với số lượng đặt hàng tháng 1 tăng cao hơn cùng kỳ năm 2013 ở mức 2 con số, đặc biệt tại Hà Nội. Điều này cho thấy khách hàng của các thương hiệu xe sang, những người thuộc tầng lớp giàu có rất mê xe Audi.
"Năm thứ 5 liên tiếp Audi có tốc độ phát triển dương ở Việt Nam.
Năm 2013, Mercedes Việt Nam tăng trưởng 65%, khởi đầu năm 2014 tốt nhất trong 19 năm tại thị trường Việt Nam.
BMW có 7 năm tăng trưởng tốt ở thị trường Việt Nam".
Trong tháng 1/2014, mẫu xe bán chạy nhất của Mercedes-Benz Việt Nam là E-Class với 60 chiếc. Giám đốc Kinh doanh và Tiếp thị Mercedes-Benz Việt Nam, ông Dirk Adelmann, chia sẻ: "Thành tích này là một khởi đầu tuyệt vời cho Mercedes-Benz trong năm 2014. Đặc biệt, chiếc xe hạng sang cỡ lớn S-Class đã "cháy hàng" tại thị trường Việt Nam. Lô xe 40 chiếc S-Class đầu tiên đã được bán hết chỉ trong vài ngày đầu năm 2014".
Hiện tại, nhu cầu của khách hàng cho dòng xe S-Class là rất lớn và vượt ngoài mong đợi của Hãng. Mercedes-Benz Việt Nam đang hoạt động hết công suất để có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Rolls-Royce công bố số lượng bán ra toàn cầu với 3.630 xe. Đây là năm thứ tư liên tiếp chứng kiến việc tăng số lượng cũng như doanh số cao nhất trong lịch sử 110 năm của thương hiệu Rolls-Royce Motor Cars. Việc này đã giúp Rolls-Royce khẳng định vị thế dẫn đầu trong phân khúc xe siêu sang. Tại Việt Nam, thỉnh thoảng có những chiếc Rolls-Royce trên đường đã phần nào nhận thấy số xe bán ra của hãng này không phải là ít.
Q5 là dòng xe chiến lược tại Việt Nam của Audi. Ảnh: Bảo Sơn
Thị trường xe sang ở Việt Nam gần như đủ mặt "anh hào" để cùng nhau "chinh chiến". Tiềm năng của thị trường vẫn còn rộng cửa, như chính đại diện Lexus Việt Nam, ông Yoshihisa Maruta, chia sẻ: "Chúng tôi đầu tư 200 tỷ đồng cho showroom tại TP.HCM nhưng không đặt nặng vấn đề doanh số. Chúng tôi hướng tới vị trí số 1 về chỉ số hài lòng của khách hàng".
Khẳng định của Lexus càng chứng minh Việt Nam là thị trường quan trọng của xe sang. Nhu cầu mua sắm xe sang của giới nhà giàu Việt Nam luôn cao, bất chấp nền kinh tế vẫn trong tình trạng suy thoái.

Khám phá vấn đề thị trường ngách - cuộc chơi không dễ dàng

Theo ông Đỗ Thanh Năm, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn và Hỗ trợ chiến lược Win-Win, thành công của những doanh nghiệp chọn thị trường ngách đúng là nhờ họ hiểu biết rõ nhóm khách hàng mục tiêu nên dễ dàng đáp ứng tốt hơn những nhu cầu của khách hàng so với các công ty phục vụ nhu cầu đại trà khác. Nhờ vậy, mà họ có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn so với các công ty khác vì có phần giá trị cộng thêm.
Việc tập trung vào phục vụ khách hàng trong một thị trường ngách sẽ có nhiều lợi thế vì tiếp cận khách hàng dễ dàng hơn và có ít đối thủ cạnh tranh hơn.
Thị trường tiềm năng của doanh nghiệp lớn
Một trong những thương hiệu thế giới thành công với thị trường ngách là Rolls-Royce Motor Cars. Đối tượng mà nhà phân phối của Rolls-Royce nhắm tới là các doanh nhân thành đạt và có nhu cầu về chiếc xe hơi hạng sang. Năm 2013, thế giới đang có xu hướng tiết kiệm mua sắm nhưng Rolls-Royce vẫn bán ra đến 3.630 chiếc xe. Thương hiệu này đã giữ vững mức tăng trưởng hai con số trong suốt bốn năm qua.
Tại Việt Nam, Viễn Thông A là doanh nghiệp xác định thị trường ngách là một trong những thị trường tiềm năng. Trước đây, Viễn Thông A cũng lựa chọn mô hình cửa hàng bán đa dạng các loại điện thoại di động. Nhưng dần dần, doanh nghiệp này nhận ra một điều, mô hình hoạt động này không tạo ra được sự khác biệt và ghi dấu ấn với người tiêu dùng nên tìm cách chuyển hướng.
Thương hiệu này đã thành lập các cửa hàng chuyên biệt chỉ bán điện thoại thông minh. Kết quả, mô hình kinh doanh này đã thu hút nhiều lượt khách hơn và lượng điện thoại bán ra từ một trong các cửa hàng của Viễn Thông A ở quận 10 bán ra đã tăng 10%.
Hiện tại tỷ suất sinh lời của ngành điện thoại di động giảm đáng kể so với những năm trước, riêng với dòng điện thoại phổ thông, tỷ suất này chưa đến 10%.
Công ty Nlink đã quyết định đầu tư vào các dịch vụ vui chơi, giải trí mang tính giáo dục thông qua hệ thống 15 Trung tâm Giáo dục Thiếu nhi TiNiWorld tại Việt Nam với khoản đầu tư gần 4 triệu USD. Kết quả, chỉ trong hơn hai năm, mảng dịch vụ vui chơi giải trí của công ty này có mức tăng trưởng trên 200%/năm.
Nhiều chuyên gia kinh tế còn khẳng định rằng phân khúc thị trường tiêu dùng cho trẻ em có nhiều thị trường ngách đầy tiềm năng mà các doanh nghiệp trong nước chưa khai thác được mấy. Trong ba nhóm chính của thị trường này gồm giáo dục, y tế, nhóm các sản phẩm và dịch vụ khác thì nhóm thứ ba được xem là ngành có thị trường ngách đa dạng và dễ thành công nhất.
Hai mặt của thị trường
Theo ông Đỗ Thanh Năm, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn và Hỗ trợ chiến lược Win-Win, thành công của những doanh nghiệp chọn thị trường ngách đúng là nhờ họ hiểu biết rõ nhóm khách hàng mục tiêu nên dễ dàng đáp ứng tốt hơn những nhu cầu của khách hàng so với các công ty phục vụ nhu cầu đại trà khác. Nhờ vậy, mà họ có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn so với các công ty khác vì có phần giá trị cộng thêm.
Ông còn nhấn mạnh thêm, trong điều kiện kinh tế khó khăn như hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thay vì nỗ lực tập trung vào phần nhỏ của thị trường lớn thì hãy tập trung vào các thị trường ngách. Tuy nhiên, muốn thành công với thị trường này, doanh nghiệp cần đi tìm sự khác biệt để thiết lập một thị trường riêng đồng thời xác định đúng thời điểm tung ra sản phẩm.
Chẳng hạn như sự thành công của Công ty CP Sản xuất Thương mại và Dịch vụ Linh Anh, chuyên sản xuất các mặt hàng nông sản chế biến. Cách đây hơn hai năm, nhận thấy phân khúc các loại sản phẩm trái cây sấy dẻo dường như bị bỏ ngỏ trên thị trường, Linh Anh đã nắm bắt kịp thời và cho ra đời hàng loạt sản phẩm sấy dẻo như: mứt dẻo vỏ bưởi, khoai lang sấy dẻo, cà chua dẻo… Sự ra đời đúng thời điểm và nét độc đáo khác biệt đã giúp cho sản phẩm Linh Anh nhanh chóng được người tiêu dùng đón nhận. Ngoài ra, việc lựa chọn kênh cung cấp thực phẩm phổ biến là kênh siêu thị cũng đã góp phần làm nên thành công của sản phẩm Linh Anh.
Đôi khi, doanh nghiệp lựa chọn thị trường ngách không cần phải tạo ra một sản phẩm hoàn toàn mới mà chỉ cần có những sáng tạo phù hợp từ một sản phẩm đã có, đồng thời có chiến dịch tiếp thị thu hút sự chú ý của người tiêu dùng.
Cách đây gần tám năm, sản phẩm Trà xanh Không độ của Tân Hiệp Phát vừa mới ra đời đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường không chỉ vì đây là sản phẩm chưa từng có mặt trên thị trường, đánh đúng vào tâm lý người mua là sản phẩm có lợi cho sức khỏe, mà còn nhờ hệ thống tiếp thị tập trung gồm: quảng cáo bắt mắt, đầu tư công nghệ, tiện dụng, hệ thống phân phối tốt…
Nhưng ngay sau đó, sản phẩm trà xanh C2 của Công ty TNHH URC Việt Nam đã chọn tiếp cận khách hàng bằng các phương pháp tương tự và đã phát triển cực nhanh. Có thời điểm C2 phát triển nóng, tăng trưởng đến 97%/năm. “Ngách” mà C2 chọn để tấn công thị trường là truyền thông mạnh cho chất lượng “chế biến từ 100% trà xanh Thái Nguyên”, một địa danh trồng trà nổi tiếng của Việt Nam. Hơn nữa, chai C2 có dung tích nhỏ hơn Trà xanh Không độ nên tiện dụng, giá dễ mua hơn. Sau này, Công ty TNHH URC Việt Nam còn được hỗ trợ rất mạnh từ các chiến dịch truyền thông lẫn hệ thống phân phối là hơn 3 triệu điểm bán lẻ trên cả nước nên sản phẩm C2 đã có mặt khắp mọi nơi, tiếp cận khách hàng trên quy mô rộng lớn.
Một thị trường ngách có nhiều khả năng thành công không chỉ là thị trường có ít đối thủ cạnh tranh mà phải có tiềm năng tăng trưởng, có sức mua và quy mô đủ để có khả năng sinh lời.
Ông Đỗ Thanh Năm cũng cho một ví dụ tiêu biểu: Cà phê hòa tan dành cho giới nữ Passiona được Trung Nguyên tung ra vào năm 2010 dựa trên khảo sát cho thấy ở nước ta phụ nữ uống cà phê, đặc biệt là cà phê hòa tan chiếm tỷ lệ lớn, khi thị trường chưa hề có sản phẩm dành riêng cho phụ nữ. Trung Nguyên đã tung ra Passiona sử dụng đường ăn kiêng có hàm lượng cafein phù hợp, bổ sung thêm dưỡng chất collagen, vitamin PP và một số thảo mộc tốt cho da. Tuy nhiên, sau một thời gian xuất hiện, Passiona vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng mục tiêu – giới nữ.
Nguyên nhân thất bại của Passiona được nhìn nhận như sau: uống cà phê đã không chỉ là thói quen mà là văn hóa nên không dễ để người tiêu dùng thay đổi (ít cafein, nhiều thảo mộc nên làm cho Passiona không giống cà phê nữa), hình ảnh truyền thông của Passiona làm cho người tiêu dùng dễ nghĩ rằng đây là sản phẩm dành cho những phụ nữ thành đạt, bao bì sản phẩm lại giống một loại mỹ phẩm hơn là cà phê.
Một trường hợp khác là chuỗi năm cửa hàng Thế giới 24G – mô hình bán lẻ “trải nghiệm trước, mua sắm sau” của Nguyễn Kim, xuất hiện từ giữa năm 2011. Chưa đầy nửa năm sau, năm cửa hàng này lần lượt đóng cửa do thua lỗ, nguyên nhân chính là do chưa đánh giá đúng nhu cầu của người tiêu dùng nên nhanh chóng phải chuyển hướng kinh doanh.
Lời khuyên cho doanh nghiệp
Các chuyên gia trong lĩnh vực cho rằng, trong một giới hạn nào đó, thị trường ngách thường là các thị trường mới.
Doanh nghiệp cần thận trọng trong việc đánh giá đặc điểm nhu cầu của thị trường. Những điều mà doanh nghiệp đang hình dung về thị trường ngách có thực sự đúng đắn chưa? Điều này liên quan đến việc đánh giá tiềm năng của thị trường, cách tiếp cận của doanh nghiệp đối với khách hàng mục tiêu.
Doanh nghiệp khai phá thị trường ngách chính là người đi đầu trong thị trường đấy tại thời điểm và vị trí xác định. Sau khi được khai phá, nhiều doanh nghiệp khác nhìn thấy cơ hội sẽ nhảy vào. Vì vậy, doanh nghiệp phải triển khai nhanh và đồng loạt các hoạt động như marketing, bán hàng, thương hiệu để có thể khẳng định vị thế (mức độ như thế nào, tùy thuộc vào ngành hàng kinh doanh và mức độ dễ bị bắt chước). Nếu nội lực không đủ thì cần phải huy động từ bên ngoài, không nên bảo thủ.
Nếu không chuẩn bị về nguồn lực tài chính, “ngách” của doanh nghiệp này có thể là lối đi rộng của một doanh nghiệp khác dồi dào về tài chính hơn.

Cùng tìm hiểu về OTT: cuộc đua mới

Dịch vụ này đang tạo nên những thay đổi lớn trong ngành công nghiệp di động trong tương lai gần. Những người khổng lồ trong lĩnh vực internet như Facebook, Apple, Google đều đã nhảy vào mỏ vàng này và cạnh tranh nhau quyết liệt (các công ty này đều đã tung ra những công cụ nhắn tin miễn phí tương ứng là Facebook Messenger, iMessage và Hangouts).
Giá trị của các công ty cung cấp các ứng dụng gửi tin nhắn và gọi điện miễn phí internet (OTT) đang tăng vọt khi số lượng người sử dụng ngày một tăng. Facebook chi ra tới 19 tỷ USD mua lại WhatsApp 5 ngày sau khi công ty thương mại điện tử lớn nhất Nhật Bản Rakuten mua Viber với giá 900 triệu USD. SoftBank đang tìm cách mua một cổ phần của Line. Ngay cả BlackBerry, với 85 triệu người sử dụng dịch vụ nhắn tin BBM, cũng trở thành một thương vụ được nhiều nhà đầu tư nhòm ngó.
Mua các dịch vụ như WhatsApp là cách nhanh nhất giúp các công ty công nghệ như Facebook có thêm hàng chục triệu khách hàng. Bên cạnh đó, dịch vụ miễn phí này lại là "mỏ vàng" tương lai cần được khai thác. Theo dự báo của BI Intelligence, dịch vụ OTT sẽ vươn lên con số 7 tỷ USD doanh thu toàn cầu trong năm 2016, chủ yếu nhờ thu phí tải ứng dụng, tích hợp quảng cáo, bán sticker, game...
Dịch vụ này đang tạo nên những thay đổi lớn trong ngành công nghiệp di động trong tương lai gần. Những người khổng lồ trong lĩnh vực internet như Facebook, Apple, Google đều đã nhảy vào mỏ vàng này và cạnh tranh nhau quyết liệt (các công ty này đều đã tung ra những công cụ nhắn tin miễn phí tương ứng là Facebook Messenger, iMessage và Hangouts).
Nhưng các dịch vụ OTT đang phải đối mặt với áp lực phải mở rộng và cạnh tranh. Mặc dù có số người sử dụng là 450 triệu trên toàn thế giới có một vị trí thống trị ở Mỹ nhưng WhatsApp vẫn đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh khó chịu ở châu Á. WeChat, thuộc sở hữu của Công ty Tencent, là dịch vụ nhắn tin hàng đầu của Trung Quốc với 272 triệu người sử dụng. Kể từ khi Facebook bị cấm ở Trung Quốc, WhatsApp có thể sẽ gặp nhiều trở ngại tại thị trường đông dân nhất thế giới này.
Trong khi đó, KakaoTalk hiện đang dẫn đầu ở thị trường Hàn Quốc, chiếm 93% thị phần dịch vụ OTT của thị trường 36 triệu người sử dụng smartphone. Dịch vụ Line của Công ty Naver, Hàn Quốc, có 370 triệu người sử dụng và đang mở rộng ở Nhật Bản, Đài Loan và Thái Lan. Doanh thu trong quý IV/2013 của Line đã tăng hơn 5 lần, lên 12,2 tỷ yên (120 triệu USD), từ mức 2,2 tỷ yên một năm trước đó.
Trước sự bành trướng của các dịch vụ OTT, Yahoo! Nhật Bản đã phải đóng cửa dịch vụ Yahoo! Messenger của mình trong vài tháng tới. Năm ngoái, Yahoo! đã từng từ bỏ thị trường Hàn Quốc nhưng bởi lý do tái cơ cấu. Facebook có sức mạnh tại các thị trường mới nổi và tạo ra rào cản đối với KakaoTalk và Line mở rộng tại các thị trường như Brazil và Indonesia.
Sự xuất hiện của Facebook khiến các dịch vụ OTT địa phương phải cung cấp một sản phẩm tốt hơn để cạnh tranh với WhatsApp. Theo Morgan Stanley, sau thương vụ của Facebook và WhatsApp, giá cổ phiếu của Naver giảm hơn 8%. Theo Bloomberg, nhà mạng hàng đầu Nhật Bản - SoftBank đang muốn mua cổ phần trong Line - ứng dụng gọi điện, nhắn tin miễn phí trên di động được định giá lên tới gần 15 tỷ USD.
Để cạnh tranh, WhatsApp tuyên bố sẽ bổ sung dịch vụ thoại miễn phí cho người dùng trong vài tháng tới. Trong khi Line, KakaoTalk, WeChat kiếm tiền bằng thu phí các trò chơi và các biểu tượng hoạt hình, thì WhatsApp mới chỉ thu 99 cent của người dùng mỗi năm.